Đó là:
1. Thí sinh nhận thức được rằng, không phải ai theo học CNTT cũng có thể kiếm được việc làm đúng nghề, đúng chuyên ngành được đào tạo. Chỉ có người có khả năng (kỹ thuật, ngoại ngữ...) mới có cơ hội việc làm tốt.
2. Học CNTT không phải là một ngành học có thể chạy theo “mốt” mà nó đòi hỏi người học phải có niềm đam mê và khả năng tư duy tốt.
3. Tiếng Anh là một yêu cầu rất cần thiết khi học tin học. Có học tốt ngoại ngữ thì mới có khả năng đọc tài liệu tin học bằng tiếng Anh và mới có khả năng nghiên cứu tin học. Trong khi, trình độ tiếng Anh trong mặt bằng chung của học sinh lớp 12 và sinh viên hiện nay vẫn còn khá thấp.
Theo TS Quách Tuấn Ngọc, Giám đốc Trung tâm Tin học Bộ GD-ĐT thì sự thành đạt trong ngành CNTT không phụ thuộc nhiều vào bằng cấp. Có thể lấy ngay ví dụ về các ông chủ của hãng phần mềm nổi tiếng thế giới như Microsoft, Apple... đều không phải được đào tạo từ "lò" CNTT.
Ngay ở Việt Nam, nhiều người thành công trong lĩnh vực IT nhưng lại không phải là cử nhân hay kỹ sư CNTT. Trong khi đó, nhiều ngươờ được đào tạo khá bài bản nhưng khi tốt nghiệp lại phải… chuyển nghề. |
4. Nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực CNTT ở Việt Nam trong những năm tới là rất lớn, nhưng đòi hỏi phải có chất lượng cao. Trong khi đó ở Việt Nam có quá nhiều trường đào tạo CNTT với mức điểm chuẩn đầu vào rất khác nhau. Đào tạo CNTT ở Việt Nam hiện nay đã thừa về số lượng tuy vẫn còn rất thiếu đội ngũ kỹ sư và quản lý trình độ cao.
5. Hệ thống đào tạo CNTT của Việt Nam hiên nay về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu đồi hỏi đối với ngành này, còn nặng về lý thuyết, thiếu tính thực tiễn.
6. Phương pháp giảng dạy của ngành CNTT đòi hỏi giảng viên phải phát huy được khả năng tự học của SV, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Người thầy phải đóng vai trò của người hướng dẫn và giải đáp những thắc mắc của SV, như là một người đi trước.
Tuy nhiên, phương pháp giảng dạy này ở Việt Nam mới chỉ có rất ít trường thực hiện được. Một phần là do nếp cũ của thầy, nhưng một phần là do sức ì của một bộ phận SV (do bị nhồi nhét một cách thụ động, quá nhiều trong những giờ học thêm, luyện thi ĐH).
7. Tài liệu giảng dạy ngành CNTT còn bất cập. Hiện nay nguồn học liệu mở (của các trường ĐH tiên tiến trên thế giới) rất phong phú và rất dễ khai thác. Vì vậy các trường ĐH ở Việt Nam không thiếu tài liệu. Nhưng trình độ của người dạy và khả năng tiếp thu của người học đều chưa đủ khả năng khai thác và vận dụng. Giáo trình dạy CNTT ở các trường ĐH cập nhật thông tin mới rất chậm.
8. Chương trình đào tạo CNTT hiện nay chưa xác định rõ là đào tạo “chuyên gia làm việc trong industry” hay “nhà nghiên cứu trong lĩnh vực học thuật”. Vì thế, việc đào tạo sinh viên CNTT không xác định rõ được yêu cầu để phục vụ nguồn nhân lực cho việc CNH-HĐH đất nước hay để nghiên cứu phát triển khoa học.
9. Thách thức đối với ngành CNTT là quá lớn. Nghề IT chủ yếu chỉ "sung" ở thời trẻ. CNTT là một môi trường đầy thách thức do công nghệ liên tục đổi mới.
Tin học có khác Công nghệ thông tin?
Đối với ngành CNTT, đã có nhiều bạn đọc gửi e-mail về Dân trí thắc mắc ngành Tin học và CNTT khác nhau như thế nào, tại sao có trường đào tạo ngành Tin học, có trường đào tạo ngành CNTT? Bằng kỹ sư CNTT và bằng cử nhân CNTT khác nhau ra sao?
TS Quách Tuấn Ngọc đã trả lời cho những thắc mắc này như sau:
Về thuật ngữ, Tin học được dịch từ Informatique (tiếng Pháp) là tên chuyên ngành được phổ biến từ những năm 1970 đến 1990. Tiếng Anh thì vẫn dùng phổ biến là Computer Science.
Khoảng năm 1990, thế giới phổ biến dùng CNTT, dịch từ Information Technology.
Đến năm 2000, thế giới lại dùng là ICT (Information and Communication Technology), cho thấy sự hội tụ giữa Tin học và Viễn thông.
Hiện nay, ở Việt Nam, các trường có nơi gọi là khoa Tin học, có nơi gọi là Khoa CNTT, nhưng về nội hàm thì không khác biệt.
Các trường đại học kỹ thuật hệ 5 năm như ĐHBK thì bằng tốt nghiệp mang tên bằng kỹ sư.
Các trường khác đào tạo hệ 4 năm như ĐH Công nghệ... thì bằng tốt nghiệp gọi là bằng cử nhân. |
M.M (tổng hợp)