Sáng tạo
Sáng tạo là nhân tố căn bản thứ tám để thành công (FOS). Nếu muốn suy nghĩ như một người thành công, bạn phải sáng tạo! Nhà lịch sử học người Mỹ - James Harvey Robison (1863-1936) nhận xét, "Con người chính là hiện diện của sự sáng tạo đa dạng về hình thái và thể loại". Hãy nhìn quanh ta. Tất cả mọi đồ vật ta thấy đều là kết tinh sáng tạo của loài người. Thật ra, những gì bạn nhìn thấy không phải là "đồ vật" mà là những ý tưởng được biểu thị ở dạng vật chất. Đó chính là những ý tưởng đã tạo ra cái ghế ta ngồi, cây bút ta viết, cái đèn cho ta đọc sách.
Đi qua bất kỳ thành phố lớn nào, bạn cũng sẽ kinh ngạc trước những công trình sáng tạo của con người từ những ngôi nhà chọc trời đến các sân vận động, đường cao tốc, cầu cống đến công viên. Tất cả đều được bắt đầu chỉ từ một ý tưởng nho nhỏ. Chính những con người với những ý nghĩ, mơ ước, và hình ảnh đã tạo ra những gì ta có. Suy nghĩ thống trị toàn bộ thế giới.
BẠN LÀ CON NGƯỜI NHƯ BẠN NGHĨ. BẠN ĐƯỢC HƯỞNG NHỮNG GÌ Ý NGHĨ NHÂN LOẠI SÁNG TẠO RA
Sáng tạo là khả năng sẵn có của con người từ lúc mới ra đời. Albert Einstein (1879-1955), nhà vật lý vĩ đại với học thuyết tương đối cho rằng mọi đứa trẻ sinh ra đều là thiên tài. Khi kiểm tra trẻ em ở lứa tuổi từ 2 đến 4, có tới 95% là có đầu óc sáng tạo. Khi được kiểm tra lại ở lúc 7 tuổi, chỉ có khoảng 5% trong số đó là còn có óc sáng tạo cao. Điều gì đã xảy ra? Trong cuốn "Tự đổi mới", ông John W. Gardner cho rằng việc tuân thủ các áp lực xã hội chính là nguyên nhân làm mất đi khả năng sáng tạo.
Chúng ta thấy những đứa trẻ có xu hướng tìm kiếm tình yêu thương, sự vuốt ve và tránh né phê bình là những đứa trẻ được nuôi dạy trong môi trường sợ thất bại và từ chối. Chúng buộc phải hết sức tinh tế nhưng không tế nhị quá, có nghĩa là tuân theo những chuẩn mực, những mong muốn mà người lớn kỳ vọng ở chúng, phải cư xử một cách không sáng tạo. Người ta bảo chúng phải làm gì, khi nào và làm như thế nào. Thường thường thì người ta không khuyến khích chúng đặt câu hỏi để tìm tòi con đường mới hay để thoả mãn bản năng tò mò tự nhiên của chúng. Chúng được thưởng nếu tuân theo những tiêu chuẩn hay thông lệ, một kiểu thoả hiệp không nhân tính. Dần dần trong quá trình này, chúng đã mất tình thiên bẩm và khả năng suy nghĩ độc lập.
Về sau này, khi đã trưởng thành, nhiều người biểu lộ lối áp đặt suy nghĩ đã ấn định từ hồi nhỏ bằng những ý nghĩ, thái độ khô khan cứng nhắc. Những người bị cạn khả năng sáng tạo thì thường có xu hướng bất an, không năng động và không có óc tưởng tượng. Họ nhìn mọi thứ một cách cực đoan, hoặc sai hoặc đúng, hoặc trắng hoặc đen, thích hợp hay không thích hợp. Họ không có khả năng suy nghĩ theo bản chất hoặc tái tạo vần đề một cách sáng tạo mà chỉ suy nghĩ theo thói quen bám dính vào thực trạng.
May thay tính sáng tạo không mất đi. Nó chỉ tạm thời ẩn mình trong trạng thái ngủ do không được khai thác và hoàn toàn có thể khôi phục lại khi cần đến. Bạn chỉ cần chấp nhận sự thật là bạn vẫn sở hữu những phẩm chất bạn có lúc sinh ra - sự khôn ngoan hiểu biết, trí thông minh, óc sáng tạo vốn có, tạo thành tài năng đặc biệt của bạn. Thiên tài thể hiện ở chính khả năng biến những điều bình thường thành mới lạ, biến phức tạp thành giản đơn, những điều dường như không liên quan trở thành liên quan. Kết nối những hình thái đã biết thành hình thái chưa biết lúc trước - đó chính là thành công vĩ đại của thiên tài.
Khả năng phát triển và sử dụng có chủ định tính sáng tạo vốn có của bản thân chính là chìa khoá dẫn đến thành công. Nhưng thật ra điều này lại bị xem nhẹ và không được hiểu biết cho lắm. Để phát huy khả năng đó đòi hỏi phải có sự tập trung cao độ, liên tục và nỗ lực trong mọi thử thách bạn đối mặt cũng như tin tưởng vào kết quả thành công. Mỗi lần bạn có những giải pháp hay hiểu biết sáng tạo với một thách thức nào đó thì tự nhiên bạn sẽ có được cảm giác tích cực cùng với thành quả đạt được. Sử dụng óc sáng tạo chính là cách tạo lập khả năng kiểm soát bản thân một cách có tổ chức và hệ thống, nâng cao tự trọng bản thân cũng như hướng bạn tới cái đích mong muốn.
Nếu định nghĩa một cách chuẩn xác Sáng tạo chính là việc tạo ra hoặc sắp xếp lại cái cũ theo kiểu mới. Nó đặc trưng cho quá trình hiện thực hoá tiềm năng của con người, của khả năng sáng tạo của tiềm thức. Tiềm thức của chúng ta ví như một nhà kho vô cùng rộng lớn. Nó chứa đựng sự khôn ngoan trong quá khứ, sự hiểu biết về hiện tại, cũng như những hình ảnh của tương lai. Bằng cách khai thác nguồn dự trữ dồi dào này, ta có thể tạo ra những ý tưởng mới về bất kỳ điều gì ta muốn nghĩ tới.
KHI MỌI NGƯỜI ĐỀU NGHĨ GIỐNG NHAU CÓ NGHĨA LÀ CHẲNG AI SUY NGHĨ CẢ
Nếu muốn khai thác hết khả năng bản thân và tìm ra cơ hội đạt thành tích cao thì bạn buộc phải thách thức tiềm năng sáng tạo của mình. Nếu không, bạn cũng sẽ phí phạm đời mình như những người khác, với kết cục sẽ là một bản sao chứ không phải là bản gốc. Khi mọi người cùng nghĩ như nhau thì có nghĩa là chả ai suy nghĩ cả. Và như thế thì sẽ chẳng hoàn thành được điều gì có ích cả.
Các nhà nghiên cứu hành vi ứng xử của những người sáng tạo đã tìm ra được mối liên quan mật thiết giữa tính sáng tạo với cách suy nghĩ tích cực. Những người tích cực là người có thói quen xem xét một loạt các khả năng, các cách khác nhau để đạt đến một mục đích cụ thể. Thái độ tích cực vốn đã bao hàm sự tin tưởng ở các khả năng. Người tích cực có thể tìm thấy giá trị trong mỗi ý nghĩ và lý do tại sao ý nghĩa đó lại hữu ích. Ngược lại, người tiêu cực chỉ chú trọng đến lý do tại sao lại không hữu ích. Sáng tạo giúp bạn không bị bó hẹp trong một giới hạn nhất định mà có thể khám phá ra các khả năng mới. Abrâhm Maslow đã từng nói: "Nếu dừng lại, hài lòng với một phần khả năng của mình thì suốt phần đời còn lại bạn sẽ không được hạnh phúc".
Có hai quá trình tư duy khác nhau rõ rệt liên quan đến vấn đề sáng tạo. Sự khác biệt nằm trong cách bộ não xử lý thông tin liên quan.
Quá trình tư duy thứ nhất được gọi là suy nghĩ phân tích bao gồm việc mở ra toàn bộ mọi khía cạnh của vấn đề, có nghĩa là đề cập vấn đề theo nhiều cách khác nhau, đánh giá theo một vài quan điểm, từ sự thật khách quan đánh giá rút ra câu hỏi, hợp nhất tất cả mọi thông tin và liệt kê mọi biện pháp giải quyết. Suy nghĩ phân tích nhằm mục đích cân nhắc vấn đề ở mọi khía cạnh hoàn cảnh để có thể hiểu rõ hơn về bản chất sâu xa và liệt kê mọi giải pháp có thể. Ta có thể so nó như việc thổi phồng một quả bóng để biết được hình dạng, kích cỡ đích thực của quả bóng.
Cách tư duy thứ hai được gọi là hội tụ, nó được tiến hành hoàn toàn trái ngược với cách suy nghĩ ở trên. Theo cách này, vấn đề sẽ được chia thành từng phần nhỏ dễ kiểm soát hơn. Cách lập luận này không chú trọng đến các nhân tố quan trọng và chọn các biện pháp thực hiện khác. Lập luận hội tụ thực ra là sự thu nhỏ, nó biến vấn đề thành kế hoạch hành động và biện pháp cụ thể để đánh giá kết quả.
Kỹ năng chính yếu trong việc giải quyết các vấn đề là phải biết được khi nào cần lập luận phân tích, khi nào hội tụ bởi vì hầu hết mọi người đều có thói quen suy nghĩ theo một kiểu nhất định nào đó.
Những người có lối tư duy phân tích thường rất giỏi trong việc tìm ra một loạt các ý tưởng mới và xem xét biện pháp giải quyết nhưng họ lại không có khả năng đi đến quyết định. Những người này thường được gán cho cái mác là không dứt khoát, chính bởi vì họ không bao giờ hành động cả mà thay vào đó họ thích tiếp tục nghiên cứu vấn đề một lần nữa.
Mặt khác, người có lập luận hợp lý nhất lại có chiều hướng hành động khi chưa chín muồi, không xem xét toàn bộ vấn đề một cách hoàn chỉnh. Những người này thường có quyết định đột xuất dựa trên lượng thông tin không đầy đủ và không mấy quan tâm đến các biện pháp có thể. Những người này được gán mác hấp tấp do họ không bao giờ hiểu rõ tại sao họ lại làm một việc gì đó họ quá vội vàng hành động.
Sáng tạo là một bài thực hành suy nghĩ. Nó là một kỹ năng lý tính nhằm nảy sinh những ý tưởng mới có thể có ích hơn những ý cũ. Một ý tưởng mới thật ra thường là sự kết hợp các ý tưởng cũ sắp xếp lại theo kiểu khác đi. Bạn có thể dễ dàng có những ý tưởng mới nhờ cách chấp nhận lối "tự do kết hợp", việc liên kết hai hay nhiều ý tưởng sẽ tạo ra một ý tưởng mới. Sony đã chế tạo ra một sản phẩm hoàn toàn mới là máy Walkman. Sản phẩm này kết hợp từ hai ý tưởng nhằm thoả mãn nhu cầu chưa được đáp ứng của người tiêu dùng là có thể vừa nghe đài vừa đi lại hay chạy bộ - đa dạng hoá các hoạt động giải trí.
Còn đây là một dẫn chứng khác đã tạo ra một cuộc cách mạng trong ngành giao thông vận tải. Cuối thế kỷ trước một kỹ sư người Đức - Wilhelm Maybach quan sát máy phun hương và hết sức tò mò tại sao dung dịch lại hoà quyện với không khí. Ông thử nghiệm với dầu hoả và cuối cùng đã tạo được bộ chế hoà khí. lottlieb Daimler đã dùng dụng cụ này tạo ra một phương pháp vận tải hoàn toàn mới - động cơ.
Của cải đáng giá thực sự trên thế giới chính là những ý tưởng mới và những người sẵn sàng tìm hiểu phát kiến từ đó. Của cải vật chất không phải là những vật dụng sang trọng như nhà cửa, xe cộ hay những tài sản cá nhân. Những thứ đó chỉ đơn giản là biểu tượng của vật chất. Nhân tố sâu xa ẩn chứa sau những điều kỳ diệu đó chính là những ý tưởng hữu ích mới mẻ với ứng dụng thực tế chưa được phát hiện. Những cá nhân, cơ quan hay quốc gia nào có thể phát huy được càng nhiều ý tưởng hữu ích thì sẽ càng phát triển thịnh vượng.
Victor Hugo đã từng nói, "Có thể chống lại sự xâm lược của kẻ thù nhưng không thể chống lại những ý tưởng đã dẫn đến độ chín muồi".
Dưới đây là một số phát huy ý tưởng mới được cho là hữu hiệu:
1.Phương pháp ấp ủ: Kỹ năng này được thực hiện bằng cách nhận định rõ câu hỏi hay vần đề muốn trả lời, viết ra giấy rồi thì gối đầu đi ngủ. Lúc này phần trách nhiệm thuộc về tiềm thức, và ta có thể quên vấn đề này nhưng lại chờ câu trả lời xuất hiện lúc nửa đêm hay rạng sáng. Đặt sẵn giấy bút trên bàn ngủ để khi câu trả lời đột ngột loé sáng thì bạn có thể tỉnh dậy và viết ra. Nếu không ta sẽ lại lăn ra ngủ tiếp và không bao giờ nhớ được. Rất nhiều nhà văn thành đạt khẳng định họ sử dụng phương pháp này nhiều nhất để tìm ra những ý tưởng sáng tạo cũng như để thấu hiểu vấn đề.
2. Phương pháp vận dụng trí tuệ tập thể: Phương pháp này được phát hiện do công của Alex Osborn, tác giả cuốn "Ứng dụng tưởng tượng". Được thực hiện theo kiểu một nhóm từ 4 đến 7 người tổ chức hai cuộc họp kéo dài khoảng 45 phút. Mục đích của cuộc gặp đầu tiên là để thoả thuận xem vấn đề thật sự là gì, rồi càng tìm ra càng nhiều biện pháp giải quyết càng tốt mà không đưa ra bất cứ sự đánh giá hay phán xét nào. Khi nào người điều phối đi đến được ý tưởng liên ứng của nhóm để xác định được vấn đề một cách rõ ràng thì họ sẽ xin ý kiến tập thể để giải quyết.
Phải chú trọng không thiên về ý tưởng đặc biệt nào trong quá trình bàn bạc mà chỉ khuyến khích những suy nghĩ và đề nghị ngẫu hứng. Cuối buổi họp, người điều phối chịu trách nhiệm sắp xếp đánh máy tất cả các ý kiến. Tờ đánh máy này là cơ sở cho cuộc họp thứ hai nhằm mục đích đánh giá giá trị của từng giải pháp, chọn ra một hoặc kết hợp một vài giải pháp lại và thống nhất kế hoạch thực hiện và theo dõi. Các bước tiến hành được giao cho từng người trong một khoảng thời gian nhất định để hoàn thành.
3. Phương pháp sắp xếp trí tuệ: Phương pháp này khai thác triệt để sự liên kết tự do bằng cách hình thànhmột màn hình ảnh hay liên kết quyết định ý tưởng mới. Lấy vấn đề hay đề tài làm trung tâm ở chính giữa và từ đó chia nhánh tới các ý tưởng hay giải pháp được đề cập. Khi ta nghĩ đến một mối liên hệ nào đó từ một giải pháp thì có thể vẽ thêm nhánh nhỏ. Cuối cùng ta sẽ có vô số các tia chính và rải rác một số nhánh phụ, tất cả đều nhằm giúp bạn giải quyết vấn đề.
Phương pháp sắp xếp này được Tony Buzan của nhóm Phương Pháp Học tập ở Anh phát hiện. Bài tập này được phát kiến để tận dụng tối đa các khả năng suy nghĩ khác nhau của một người và được gọi là tiếp cận "toàn não". Bao gồm các khả năng thị giác, trực giác của bán cầu não phải và phân tích logic của bán cầu trái như được miêu tả trong cuốn sách bán chạy nhất của Betty nhan đề "Tiếp bán cầu não phù hợp". Đa số mọi người có thói quen suy nghĩ theo kiểu này hoặc kiểu kia khi giải quyết vấn đề mà hiếm khi theo cả hai kiểu. Phương pháp học này kết hợp một cách hiệu quả cả hai khả năng định tính lẫn định lượng của bộ não.
Bản thân con người ta thế nào sẽ quyết định những việc ta làm; Những gì ta nghĩ sẽ quyết định con người ta; Những điều ta học được sẽ quyết định những gì ta nghĩ; Những điều ta học được lại được quyết định bởi những gì ta phải đối mặt và ta giải quyết thế nào.
Vì thế ta nên đối diện với càng nhiều người, càng nhiều tình huống khác nhau càng tốt. Những gì ta đương đầu chính là nguyên nhân chính yếu tạo nên những gì ta sẽ làm trong đời. Chính vì vậy một yếu tố hết sức quan trọng để trở thành người sáng tạo là phải đối diện với những kiến thức phức tạp khác từ bên ngoài. Nên đọc những cuốn sách gợi suy nghĩ, gặp gỡ những con người thú vị, tham dự hội thảo, diễn văn, những cuộc chuyện trò có ý nghĩa và đặt câu hỏi cho thực trạng. Nên thắc mắc, tò mò, học hỏi. Đó là cốt lõi để trở thành người sáng tạo.
(Nguồn: "Hãy nghĩ như người thành đạt")